Vật lý vật chất ngưng tụ
Vật lý vật chất ngưng tụ

Vật lý vật chất ngưng tụ

Vật lý vật chất ngưng tụ là một nhánh của vật lý học nghiên cứu các tính chất vật lý của pha ngưng tụ của vật chất.[1] Các nhà vật lý vật chất ngưng tụ có xu hướng muốn hiểu được hành xử của những pha này bằng cách sử dụng các định luật vật lý. Đặc biệt, bao gồm các định luật của cơ học lượng tử, điện từ họccơ học thống kê.Những pha ngưng tụ quen thuộc nhất là pha rắnlỏng, trong khi những pha ngưng tụ kỳ lạ hơn bao gồm pha siêu dẫn xuất hiện ở những vật liệu cụ thể tại nhiệt độ thấp, pha sắt từphản sắt từ có nguồn gốc bởi tính chất spin của electron trên dàn tinh thể nguyên tử, và ngưng tụ Bose–Einstein xảy ra ở hệ các nguyên tử siêu lạnh. Khoa học nghiên cứu vật lý vật chất ngưng tụ bao gồm những đo đạc về các tính chất của vật liệu thông qua các thí nghiệm thăm dò song hành với các kỹ thuật dựa trên vật lý lý thuyết nhằm phát triển các mô hình toán học giúp hiểu được các tính chất vật lý của hệ.Sự đa dạng của các hệ ngưng tụ cũng như nhiều hiện tượng liên quan khiến cho lĩnh vực nghiên cứu vật chất ngưng tụ là một trong những hoạt động sôi nổi của vật lý hiện đại,[2] và Nhóm Vật lý Vật chất Ngưng tụ (DCMP) là nhóm có nhiều thành viên nhất trong Hội Vật lý Hoa Kỳ.[3] Lĩnh vực này còn xuất hiện trong hóa học, khoa học vật liệu, và công nghệ nano, và liên hệ mật thiết với vật lý nguyên tửvật lý sinh học. Nghiên cứu lý thuyết của ngành vật chất ngưng tụ sử dụng những khái niệm và kỹ thuật quan trọng của vật lý hạtvật lý hạt nhân.[4]Nhiều nhánh trong vật lý học như tinh thể học, luyện kim, lý thuyết đàn hồi, từ học,..., được nghiên cứu như những nhánh riêng biệt cho đến tận những năm 1940 khi chúng được quy gọn lại trong ngành Vật lý trạng thái rắn. Trong khoảng những năm 1960, nhánh nghiên cứu các tính chất vật lý của chất lỏng đã đưa vào ngành này, và ngành này trở thành Vật lý vật chất ngưng tụ.[5] Theo nhà vật lý Phil Anderson, tên gọi này do ông và Volker Heine đặt ra khi họ thay đổi tên của nhóm nghiên cứu tại Phòng thí nghiệm Cavendish, Cambridge từ "Lý thuyết trạng thái rắn" sang "Lý thuyết vật chất ngưng tụ",[6] bởi cho rằng các nghiên cứu của họ không thể ngoại trừ việc nghiên cứu chất lỏng, vật chất hạt nhân, kính...[7] Phòng thí nghiệm Bell (lúc đó là Phòng thí nghiệm Điện thoại Bell) là một trong những nơi đầu tiên thực hiện chương trình nghiên cứu về vật lý vật chất ngưng tụ.[5]Tham khảo về thuật ngữ trạng thái "ngưng tụ" đã có ở những tài liệu sớm hơn trước đó. Ví dụ, trong cuốn sách "Kinetic theory of liquids" xuất bản năm 1947,[8] Yakov Frenkel viết rằng "Lý thuyết động học của chất lỏng phải đi theo sự phát triển của sự tổng quát hóa và mở rộng của lý thuyết động học vật rắn. Và thực tế là nó sẽ đúng hơn khi thống nhất chúng dưới tên gọi "các thể ngưng tụ"."

Tài liệu tham khảo

WikiPedia: Vật lý vật chất ngưng tụ http://nanoelectronics.unibas.ch/education/ModernP... http://books.google.com/?id=hyx6BjEX4U8C&pg=PR9 http://books.google.com/books?id=6WNKAAAAYAAJ&pg=P... http://books.google.com/books?id=WCpPPHhMdRcC&pg=P... http://books.google.com/books?id=bVq5_t9YwhYC&pg=P... http://books.google.com/books?id=tN8CbCHzBmcC&pg=P... http://books.google.com/books?id=xZrTIDmNOlgC&pg=P... http://www.nytimes.com/2001/10/10/us/3-researchers... http://www.scribd.com/doc/74216869/179/Electron-Sc... http://www.worldscientific.com/newsletter/newslett...